Yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nước

Ô nhiễm có thể được định nghĩa là sự làm bẩn dẫn đến những tổn thương nhất định cho môi trường. Ô nhiễm nước có thể được chia thành 2 loại là ô nhiễm “điểm” và ô nhiễm “không điểm”. Ô nhiễm nguồn điểm có liên quan đến một địa điểm cụ thể trên một dòng chảy và thường liên quan đến một số lượng và loại chất ô nhiễm đã biết có thể được kiểm soát tại địa điểm đó. Một ví dụ về ô nhiễm nguồn điểm là nước thải từ một đầu ra của nhà máy (xả cuối đường ống) được đưa thẳng ra một dòng suối. Ô nhiễm nguồn không điểm thường là kết quả của nhiều nguồn gây ô nhiễm trên một khu vực rộng hơn so với nguồn điểm. Một ví dụ về ô nhiễm nguồn không điểm là sự lắng đọng trầm tích mịn trong lòng suối. Dòng chảy có thể chảy qua một khu phát triển nhà ở mới, các hoạt động nông nghiệp, và những khu vực có rừng với những con đường được bảo trì kém. Tất cả các hoạt động này đều đóng góp một lượng phù sa khác nhau vào kênh suối bên cạnh lượng phù sa tự nhiên mà dòng suối chứa. Ô nhiễm nguồn không điểm khó quản lý và giám sát hơn ô nhiễm nguồn điểm. Rất khó để đo lường âm lượng hoặc “tải” từ các nguồn riêng lẻ. Chất lượng nước thậm chí có thể không bị suy giảm ở bất kỳ vị trí nguồn nào. Thay vào đó, tác động tích lũy của nhiều nguồn ô nhiễm có thể gây ra vấn đề chất lượng nước.

Chất lượng nước được đánh giá bởi các thành phần bên trong của nước, chúng cần được phân tích cụ thể bằng công cụ khoa học

Bảng dưới đây thống kê thành phần các chất có trong dòng nước ô nhiễm, chúng có ảnh hưởng nhất định đến thực và động vật sinh sống bên trong.

Thông số chất lượng nước Tầm quan trọng đối với chất lượng nước
Cỏ dại hoặc tảo thủy sinh Cỏ dại hoặc tảo thủy sinh phát triển có thể làm giảm mức oxy và tăng độ pH, cả hai đều có thể gây hại cho cá. Sự phát triển quá mức của những sinh vật này có thể làm tắc nghẽn vùng nước có thể di chuyển và cản trở việc bơi lội và chèo thuyền. Cỏ dại và tảo thủy sinh cạnh tranh với các thảm thực vật thủy sinh ngập nước bản địa. Sự phân hủy của cỏ dại và tảo cũng có thể dẫn đến sự suy giảm oxy.
Vi khuẩn – E. coli
Escherichia coli ) (Nước ngọt và Nước cửa sông Không phải Nước nuôi cá có vỏ)
Một số vi khuẩn và các sinh vật khác gây ra các bệnh cho con người, từ thương hàn và kiết lỵ đến các bệnh nhẹ về đường hô hấp và da.
Vi khuẩn – Coliform trong phân (Vùng nước biển và Động vật có vỏ cửa sông đang phát triển) Một số vi khuẩn và các sinh vật khác gây ra các bệnh cho con người, từ thương hàn và kiết lỵ đến các bệnh nhẹ về đường hô hấp và da.
Chất diệp lục a Mức diệp lục tăng cao cho thấy lượng chất dinh dưỡng đầu vào quá mức.
Oxy hòa tan Ôxy hòa tan là một yêu cầu cơ bản cho một hệ sinh thái thủy sinh khỏe mạnh. Hầu hết cá và côn trùng thủy sinh có ích đều “hít thở” oxy hòa tan trong nước. Mặc dù nồng độ oxy dao động trong điều kiện tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người có thể dẫn đến tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng.
độ pH Nhiều quá trình sinh học, chẳng hạn như quá trình trao đổi chất và sinh sản hàng ngày, bị cản trở trong môi trường nước có tính axit (pH quá thấp) hoặc kiềm (pH quá cao).
Lắng cặn Chất cặn có thể làm tắc nghẽn và làm hỏng mang cá, làm chết ngạt trứng và ấu trùng côn trùng thủy sinh dưới đáy và lấp đầy các khoảng trống trên sỏi nơi cá đẻ trứng. Trầm tích cũng có thể mang các chất ô nhiễm khác vào các vùng nước.
Nhiệt độ Thủy sinh vật nhạy cảm với nhiệt độ và cần nước trong phạm vi nhiệt độ nhất định. Khi nhiệt độ vượt quá mức chịu đựng, các sinh vật nước lạnh như kỳ giông trở nên căng thẳng về thể chất và khó lấy đủ oxy. Tiếp xúc lâu với nhiệt độ ngoài phạm vi chịu đựng sẽ gây chết.
Tổng khí hòa tan Mức độ cao của một số khí hòa tan có thể gây ra các tác động tương tự như độ pH tăng cao.
Các chất độc hại Một số chất độc hại có thể có hại, một số chất có thể trải qua các biến đổi hóa học để trở nên có hại, và một số chất có thể tích tụ trong trầm tích hoặc trong suốt chuỗi thức ăn đến mức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng, đời sống thủy sinh hoặc động vật hoang dã.
Độ đục Độ đục có liên quan chặt chẽ với trầm tích vì nó là phép đo độ trong của nước. Trong nhiều trường hợp, độ đục cao cho thấy một lượng lớn cặn lơ lửng trong dòng chảy.

Chất lượng nước thay đổi tự nhiên theo vị trí và thời gian. Ví dụ: đầu nguồn của các dòng suối ở độ cao cao có xu hướng mát hơn các dòng suối rộng ở độ cao thấp hơn, bức xạ mặt trời ảnh hưởng đến nhiệt độ dòng chảy trong ngày, và sự khác biệt tự nhiên về khí hậu và lớp phủ thực vật ven sông gây ra sự khác biệt về nhiệt độ dòng chảy. Một số suối chỉ ấm hơn một cách “tự nhiên” so với những dòng khác. Các nhiễu động như hỏa hoạn, gió thổi, hoặc thậm chí lốc xoáy có thể ảnh hưởng đến nhiệt độ dòng chảy, độ đục và các thông số chất lượng nước khác. Địa chất, địa mạo và khí hậu cũng ảnh hưởng đến chất lượng nước.

Để cải thiện chất lượng nước, điều quan trọng không chỉ nằm ở phương pháp/ hệ thống xử lý, cần hiểu, nắm rõ tính chất của chúng cũng như nâng cao ý thức và trách nhiệm của người dân.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *